Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Phụ huynh cần quan tâm đến chế độ dinh dinh dưỡng phù hợp để đảm bảo sức khỏe trẻ em. Dinh dưỡng tốt là nền tảng cơ bản đối với chức năng miễn dịch, sự tăng trưởng và thay thế mô cũng như tăng cường sức khỏe. Dinh dưỡng giúp duy trì khả năng miễn dịch bình thường chống lại bệnh lây nhiễm. Việc dự phòng suy dưỡng là một chương trình quốc gia và cần sự tham gia của toàn xã hội.


I.Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010
- Tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ em < 5 tuổi mỗi năm giảm 1,5% để giảm còn 25% vào năm 2005 và < 20% vào năm 2010.
- Tỷ lệ SDD còi cọc ở trẻ < 5 tuổi mỗi năm giảm 1,5%.
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh cân nặng < 2.500g giảm còn 7% vào năm 2005 và 6% vào năm 2010.
II.Những nguyên lý cơ bản trong vấn đề phòng chống SDD
Muốn làm tốt việc phòng chống SDD, chúng ta cần nắm vững những nguyên lý cơ bản sau đây:
1) Nguồn gốc SDD được quy về 2 nhóm:
Nguyên nhân xã hội và nguyên nhân y tế. Do đó, để đảm bảo cho thế hệ tương lai, những người trưởng thành thông minh, có thể lực tốt công tác phòng chống SDD phải trở thành Quốc gia, là trách nhiệm của mỗi người, mỗi gia đình với sự phối hợp của các ngành, các đoàn thể, trong đó ngành y tế chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn, dưới sự chỉ đạo của nhà nước.
2) Cần làm cho mọi người hiểu rõ tầm quan trọng của bệnh, do đó phải đẩy mạnh công tác giáo dục sức khỏe cho các bà mẹ, chú trọng đến giáo dục dinh dưỡng.
3) Việc phát hiện và chữa trị sớm SDD nhẹ và trung bình rất quan trọng vì việc điều trị sớm sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn, sẽ cho tiên lượng tốt hơn về chiều cao và trí tuệ. Do đó cần hướng dẫn bà mẹ cách phát hiện sớm SDD và khám sức khỏe định kỳ cho trẻ.
4) Muốn giảm tử vong của SDD phải tổ chức và thu nhận điều trị tốt SDD nặng.
5) Vì nguyên nhân trực tiếp của SDD là thiếu dinh dưỡng nên trong mọi thể SDD đặc biệt là SDD nặng, việc ăn uống phải được xem là phương tiện điều trị chủ yếu và được gọi là “ăn điều trị”.
III. Những biện pháp đề phòng SDD tại cộng đồng

1. Thuộc trách nhiệm ngành y tế

Đó là nội dung CSSKBĐ (ELEMENTS): Giáo dục sức khỏe, chữa bệnh tại nhà và xử trí vết thương thông thường, chương trình tiêm chủng mở rộng, kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc bà mẹ, trẻ em, đảm bảo thuốc thiết yếu, cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng hợp lý, vệ sinh thực phẩm, phòng và chống các bệnh XH và bệnh dịch, cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường. Đối với Việt Nam, thêm 2 điểm: quản lý sức khỏe, kiện toàn mạng lưới y tế.

2. Đối với ngành nhi

 Đó là thực hiện nội dung CSSKBĐ của ngành Nhi, cũng là phương hướng phòng chống SDD của TCYTTG.
- G: Growth monitoring: theo dõi sự phát triển cân nặng.
- O: Oral rehydration: phục hồi mất nước do ỉa chảy bằng đường uống.
- B: Breast feeding: bú mẹ.
- I: Immunization: tiêm chủng 6 bệnh lây cơ bản cho trẻ dưới 5 tuổi.
- F: Family planning: kế hoạch hóa gia đình.
- F: Food supplement: thức ăn bổ sung.
- F: Female education: giáo dục bà mẹ.

3. Phòng bệnh suy dinh dưỡng qua chương trình

“Xử trí lồng ghép bệnh trẻ em”: trên thực tế, ở trẻ em đặc biệt là các trẻ suy dinh dưỡng, tử vong không phải do đơn độc 1 bệnh, mà thường do sự kết hợp 2 - 3 bệnh gây ra. Do đó để giảm tỷ lệ tử vong trẻ em nhiều hơn nữa, để giảm tỷ lệ mắc bệnh và để tăng cường sức khoẻ cho trẻ em, trong thập niên 90, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra chương trình “xử trí lồng ghép bệnh trẻ em” (IMCI). Chương trình này đã đem lại 1 kết quả rất đáng khích lệ, nên đã được nhiều quốc gia áp dụng.
Theo chương trình này, tất cả những trẻ bị bệnh khi đến khám tại các cơ sở y tế đều được kiểm tra dấu hiệu suy dinh dưỡng, thiếu máu và được đánh giá chế độ nuôi dưỡng. Tuỳ theo kết quả đánh giá ra sao, bà mẹ trẻ sẽ được tham vấn nuôi dưỡng trẻ. Nhờ vào chương trình này mà chúng ta đã tránh được bỏ sót bệnh, phát hiện được những trẻ mới bị suy dinh dưỡng, cho những lời khuyên dinh dưỡng hợp lý, ngăn ngừa tiến triển bệnh dẫn đến suy dinh dưỡng nặng.
IV.Săn sóc trước đẻ để phòng ngừa cân nặng lúc đẻ thấp
Tỷ lệ cân nặng lúc đẻ thấp thường được dùng như một chỉ số sức khỏe về tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ, đồng thời đánh giá về tình hình kinh tế xã hội của toàn thể đất nước. Trẻ có cân nặng lúc đẻ thấp nếu mẹ không có tình trạng dinh dưỡng và toàn trạng tốt. Vì vậy:
- Phải đảm bảo chế độ dinh dưỡng tốt, không bị nhiễm trùng, hạn chế lao động nặng khi thai nghén.
- Nửa cuối của thai kỳ, người mẹ cần thêm khoảng 350 Kcal/ngày và 25 gr protein.
- Người phụ nữ chuẩn, khi có thai, theo FAO sẽ tăng trung bình 12,5 kg, trong đó 4 kg là mỡ, đó là nguồn gốc dự trữ để sản xuất sữa.
- Những tai biến do cân nặng lúc đẻ thấp gồm có: biến chứng trong giai đoan chu sinh cao, dự trữ glycogen thấp, nhất là ở những trẻ có cân nặng lúc đẻ thấp, có hạ đường huyết trong 2 ngày đầu, giảm lực mút khi bú, suy giảm MD biểu hiện bằng giảm số lượng tế bào T và giảm miễn dịch trung gian tế bào, giảm dự trữ các chất dinh dưỡng như sắt và vitamin A từ cơ thể mẹ.
- Nguy cơ bị SDD ở trẻ sơ sinh: BS Balldin đã đưa ra những yếu tố nguy cơ đưa đến SDD: cân nặng lúc đẻ dưới 2500 gr, đẻ sinh đôi, trong gia đình có hơn 3 con, có hơn 2 anh (chị) em ruột bị chết, người mẹ sống đơn độc, không có sự giúp đỡ của người chồng, không có mẹ hoặc mẹ ốm yếu, không có sữa mẹ. Nếu có một hay nhiều hơn các yếu tố kể trên, đứa trẻ phải được theo dõi hàng tháng tại phòng khám trẻ lành mạnh để giúp cho trẻ vượt qua nguy cơ mà trẻ đang có.

0 nhận xét :

Đăng nhận xét

Design by Hao Tran -